Nội dung chính
Nắm rõ được lượng Oxi hòa tan trong hồ cá biến đổi thế nào bạn sẽ có cách bổ sung lượng oxi cho cá cảnh trong bể nuôi đồng thời chủ động lượng oxi cần thiết khi đóng gói vận chuyển cá cảnh.
Sự tồn tại, sinh trưởng phát triển và sinh sôi của tất cả các loài sinh vật hiếu khí đều cần có oxy. Hàm lượng khí oxy trong không khí cao và ổn định, chiếm khoảng 21%. Do đó, các sinh vật trên đất liền rất ít khi phải chịu sự đe dọa thiếu oxy, còn hàm lượng oxy hòa tan trong nước ít mà lại hay biến đổi. Trường hợp bình thường, lượng oxy hòa tan bão hòa có trong nước ngọt chỉ tương đương với 1/20 hàm lượng khí oxy có trong không khí, trong nước mặn chiếm tỉ lệ càng ít. Vì thế, lượng oxy hòa tan.
Sự tồn tại, sinh trưởng phát triển và sinh sôi của tất cả các loài sinh vật hiếu khí đều cần có oxy. Hàm lượng khí oxy trong không khí cao và ổn định, chiếm khoảng 21%. Do đó, các sinh vật trên đất liền rất ít khi phải chịu sự đe dọa thiếu oxy, còn hàm lượng oxy hòa tan trong nước ít mà lại hay biến đổi. Trường hợp bình thường, lượng oxy hòa tan bão hòa có trong nước ngọt chỉ tương đương với 1/20 hàm lượng khí oxy có trong không khí, trong nước mặn chiếm tỉ lệ càng ít. Vì thế, lượng oxy hòa tan trong nước trở thành một nhân tố hạn chế mang tính quyết định đến sự sinh tồn trong quá trình sống của động vật thủy sinh, là một trong những yếu tố chất lượng nước thu hút sự quan tâm của những người trong ngành nuôi trồng thủy sản.
Nhưng, trong thực tiễn nuôi trồng thủy sản, từ rất lâu trở lại đây, do thiếu đi sự kiểm tra giám sát hiệu quả kịp thời đối với lượng oxy hòa tan trong nước và nhận thức không đủ về mối nguy hại tiềm ẩn mà oxy thấp gây ra, rất nhiều người nuôi chỉ quan tâm đến chi phí tăng oxy, coi hiện tượng tôm có nổi đầu hay không làm tiêu chuẩn để phán đoán hàm lượng oxy hòa tan trong nước, sau khi phát hiện tôm cá nổi đầu mới áp dụng biện pháp tăng oxy. Điều này đã biến việc tăng oxy trở thành một biện pháp “cứu mạng” phi khoa học, thường gây ra những tổn thất không đáng có hoặc làm giảm hiệu quả kinh tế. Bài viết này được trình bày hệ thống về tác dụng của oxy hòa tan trong nuôi trồng thủy sản, các nhân tố ảnh hưởng, quy luật biến đổi và các biện pháp quản lý trong điều kiện nuôi trồng cho phép, xem như là một tài liệu tham khảo cung cấp cho các hộ nuôi tăng cường công tác quản lý ao nuôi.
Nhìn từ quan điểm năng lượng học và sinh vật hóa học, động vật bắt mồi để chuyển hóa năng lượng trong thức ăn thành năng lượng đáp ứng cho hoạt động sống của động vật và có thể trực tiếp lợi dụng được, còn khí oxy hô hấp vào là điều kiện bảo đảm thông qua phản ứng sinh hóa trên cấp độ phân tử để cuối cùng đi đến thực hiện chuyển hóa này. Một khi bị thiếu khí oxy, quá trình phản ứng sinh hóa này sẽ bị chấm dứt, động vật sẽ chết. Trong thực tiễn, mọi người nhận thức khá rõ về việc tăng oxy có thể giải quyết vấn đề nổi đầu và dự phòng nổi ao của vật nuôi, nhưng chính vì như thế mà rất nhiều người nuôi chỉ coi đó như một biện pháp “cứu mạng”, vẫn chưa nhận thức được nguy hại của oxy thấp gây ra cho môi trường nước và vật nuôi thủy sản.
Vi sinh vật hiếu khí đóng vai trò rất quan trọng đối với phân giải các chất hữu cơ trong nước. Trong điều kiện có oxy, các chất thải động vật, thức ăn dư thừa, xác sinh vật (bao gồm cả tảo chết) cùng với căn bã hữu cơ sẽ được các enzyme ngoại bào do vi sinh vật sản sinh ra phân giải thành các chất hữu cơ có tính hòa tan, cuối cùng sẽ trở thành những chất vô cơ đơn giản tham gia vào tuần hoàn vật chất mới, từ đó loại bỏ được ô nhiễm hữu cơ trong nước.
Khí oxy có thể oxy hóa trực tiếp các chất độc hại trong nước và dưới đáy ao; giảm hoặc loại bỏ độc tính của nó. Khí oxy có tính oxy hóa rất mạnh, có thể oxy hóa các chất có độc tính mạnh như H2S, NO2- lần lượt biến thành Sulfate, Nitrate,…
Dưới điều kiện thiếu oxy, vi sinh vật yếm khí sẽ nổi dậy, tiến hành yếm khí lên men các chất hữu cơ, sản sinh ra rất nhiều chất trung gian lên men có mùi hôi thối như: Cadaverine, Hydrogen sulfide, Methane, Ammonia,…, cực kỳ nguy hiểm đối với vật nuôi. Trong môi trường oxy thấp, đáy và nước sẽ bị đen và có mùi hôi, nguyên nhân chủ yếu là do H2S tác dụng với Fe tạo ra chất kết tủa có màu đen. Oxy hòa tan trong nước cao sẽ ức chế hoạt động của các loại vi sinh vật yếm khí có hại, hỗ trợ cải thiện môi trường nuôi thích nghi hơn.
Oxy hòa tan trong nước đầy đủ giúp cải thiện nâng cao khả năng chịu đựng của vật nuôi đối với các nhân tố bất lợi của môi trường (như Nh3, NO2-,…), tăng cường sức chống chịu trước sự đe dọa của môi trường. Những động vật sống trong môi trường oxy thấp kéo dài, sức miễn dịch sẽ giảm, khả năng kháng bệnh kém. Nghiên cứu cho thấy rõ, khi tình trạng thiếu oxy hòa tan trong nước kéo dài, nguy cơ phát sinh bệnh do vi khuẩn rất dễ dàng tăng lên.
Oxy hòa tan trong nước chỉ các đơn chất khí oxy hòa tan trong nước ở trạng thái phân tử, mà không phải là các bọt khí thường gặp hoặc các nguyên tố oxy trong trạng thái hóa hợp. Sự hòa tan và bay hơi trong nước của oxy là một quá trình thuận nghịch, khi vận tốc hòa tan và bay hơi trong nước ngang bằng, tức đạt đến trạng thái cân bằng oxy hòa tan, lúc đó, nồng độ oxy hòa tan trong nước sẽ là hàm lượng bão hòa của oxy hòa tan dưới điều kiện này, tức lượng oxy hòa tan bão hòa.
Khi lượng oxy hòa tan bão hòa chịu ảnh hưởng của phân áp khí quyển, nhiệt độ nước, hàm lượng các chất hòa tan trong nước khác (ví dụ như các thể khí, chất hữu cơ hoặc chất vô cơ,…). Oxy hòa tan bão hòa và sự phân áp khí quyển có mối liên quan đến nhau. Trong điều kiện tự nhiên, phân áp khí quyển sẽ không có biến đổi quá lớn, do đó có thể bỏ qua sự ảnh hưởng của nó đối với lượng oxy hòa tan bão hòa. Oxy hòa tan tùy vào nhiệt độ nước tăng cao thì lượng oxy hòa tan bão hòa sẽ giảm xuống; độ mặn cũng có ảnh hưởng trực tiếp và rất rõ rệt đến oxy hòa tan, độ mặn tăng thì oxy hòa tan bão hòa sẽ giảm.
Đại đa số các trường hợp, hàm lượng oxy hòa tan thực tế trong nước thường thấp hơn so với lượng oxy hòa tan bão hòa, trị số của nó quyết định bởi kết quả giữa quá trình cân bằng tăng oxy và trạng thái oxy tiêu hao trong nước dưới điều kiện lúc đó. Khi tăng oxy lớn hơn oxy tiêu hao, oxy hòa tan có xu hướng bão hòa, có lúc còn xuất hiện hiện tượng “quá bão hòa”, oxy hòa tan trong nước liên tục giảm, kết quả làm xuất hiện tình trạng oxy thấp, thậm chí là có những vực nước không có oxy, lúc đó rất có thể xuất hiện hiện tượng “nổi đầu”, hoặc là “chết nổi hàng loạt”,…
Trong nuôi tròng ao đầm, nguồn gốc tăng oxy trong nước có từ quá trình quang hợp của thực vật phù du giải phóng ra khí oxy, tăng oxy nhân tạo (tăng oxy bằng máy móc hoặc tăng oxy hóa học,…) và oxy trong khí quyển hòa vào. Nhưng, dưới các điều kiện khác nhau, những quá trình tăng oxy theo các hình thức kể trên cũng chiếm tỉ lệ không giống nhau. Đối với ao nước tĩnh phú dưỡng chủ yếu là tăng oxy từ quá trình quang hợp, ao nuôi thâm canh mật độ cao chủ yếu là sử dụng biện pháp nhân tạo để tăng oxy, ao nước chảy và nghèo dinh dưỡng chủ yếu lấy oxy từ trong khí quyển.
Hoạt động tiêu hao oxy trong nước có thể phân thành tiêu hao oxy nguồn gốc sinh học, hóa học và sinh lí. Tiêu hao oxy sinh học bao gồm có oxy hòa tan bị tiêu hao trong hoạt động hô hấp của động vật, thực vật và vi sinh vật. Phần lớn các trường hợp, hoạt động hô hấp của sinh vật phù du và sinh vật đáy chiếm đại bộ phận lượng oxy tiêu hao trong ao nuôi. Tiêu hao oxy hóa học gồm có sự phân giải oxy hóa các chất hữu cơ và oxy hóa khử của các chất vô cơ. Tiêu hao oxy vật lí chủ yếu chỉ oxy hòa tan bay hơi vào trong không khí, chỉ chiếm một phần rất nhỏ, quá trình này chỉ tiến hành trong ranh giới nước-khí.
Bất cứ lúc nào, trong nước cũng tồn tại hàng loạt các quá trình sinh học, hóa học và vật lí phức tạp, quá trình tác động lẫn nhau này sẽ quyết định sự cân bằng trạng thái tăng oxy và tiêu hao oxy trong nước, khiến cho sự phân bố và biến đổi oxy hòa tan trong nước vừa trong tình trạng biến hóa phức tạp, lại có tính quy luật tương đối.
Đối với những ao nuôi không có hoạt động tăng oxy nhân tạo, sự biến đổi lượng oxy hòa tan giữa ngày và đêm ở nước tầng trên sẽ rất rõ rệt. Trong trường hợp bình thường, buổi chiều cao hơn sáng sớm, ban ngày cao hơn ban đêm. Vào ban ngày, oxy sẽ tăng lên do quá trình quang hợp của tảo, cho đến lúc trước khi mặt trời mọc sẽ đạt đến giá trị cao nhất, ban đêm do tảo không tiến hành được quá trình quang hợp mà những hoạt động tiêu hao oxy lại vẫn diễn ra bình thường, do vậy mà oxy hòa tan trong nước sẽ giảm đi, cho đến lúc bình minh trước khi mặt trời mọc sẽ ở mức thấp nhất. Nhưng kéo theo độ sâu tầng nước tăng lên, đặc biệt là dưới độ sâu cân bằng giữa quang hợp và hô hấp, sự biến đổi oxy hòa tan giữa ngày và đêm sẽ có xu hướng giảm đi hoặc ngưng trệ.
Lượng oxy hòa tan trong nước biến đổi theo mùa cũng khá rõ nét. Thông thường, nhiệt độ mùa đông và xuân tương đối thấp, ức chế sự phát triển của tảo, quá trình quang hợp kém, lượng oxy sinh ra ít, mà lúc đó sinh khối trong nước thấp, hoạt động hô hấp và tiêu hao oxy hóa học giảm; do đó, oxy hòa tan tương đối thấp và ít biến đổi. Mùa hạ và mùa thu, nhiệt độ cao, ánh sáng mặt trời chiếu mạnh, tảo phát triển nhanh, quá trình quang hợp diễn ra mạnh mẽ, giải phóng ra một lượng lớn khí oxy, tác dụng tăng oxy trong nước biểu hiện rõ rệt; nhưng mùa hạ và mùa thu cũng đồng thời là lúc sinh khối, hàm lượng các chất thải động vật, thức ăn dư thừa, xác động vật,…ở mức cao nhất, là lúc mà lượng oxy bị tiêu hao nhiều nhất. Vì thế, oxy hòa tan lúc này sẽ có những biến đổi lớn, đồng thời sẽ thường xuyên xuất hiện các vực nước có oxy hòa tan quá bão hòa, oxy thấp, thậm chí là không có oxy; là thời kì dễ xuất hiện các vấn đề về oxy hòa tan nhất trong nuôi trồng thủy sản.
Sau khi hòa vào trong nước cùng với muối, oxy sẽ phân tán theo các hướng khác nhau. Sự phân bố oxy hòa tan trong nước biểu hiện trạng thái giảm dần theo chiều thẳng từ trên xuống dưới. Điều này chủ yếu có liên quan tới sự chênh lệnh về nhiệt độ và ánh sáng mặt trời mà mỗi tầng nước khác nhau nhận được. Do sự hấp thu của nước và tảo trong nước, tia sáng mặt trời chiếu xuống nước sẽ yếu dần theo độ sâu, cho tới một độ sâu nhất định mà ánh sáng không thể chiếu xuống được, trở thành những vực nước tối và không có ánh sáng, tảo chỉ có thể sinh trưởng được ở những tầng nước có ánh sáng và thực hiện chức năng quang hợp giải phóng oxy, còn quá trình tiêu hao oxy vẫn diễn ra ở bất kì độ sâu nào. Từ đó, oxy hòa tan trong nước có hiện tượng tầng trên cao mà tầng dưới thì thấp, phân bố thẳng giảm dần không đều. Hiện tượng này thường thấy ở những ao nước sâu vào thời kì nhiệt độ cao.
Oxy hòa tan là một trong những yếu tố chất lượng nước quan trọng nhất và dễ phát sinh vấn đề nhất trong nuôi trồng thủy sản; lượng oxy hòa tan thực tế trong nước chịu sự ảnh hưởng chung của các nhân tố sinh học, vật lí và hóa học mà thay đổi theo thời gian. Khi hàm lượng oxy hòa tan trong nước không đủ, trước hết sẽ trực tiếp sản sinh ra những ảnh hưởng bất lợi đối với vật nuôi; tiếp đó, thông qua tác động đến các chỉ tiêu sinh học và hóa học trong môi trường nước sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến vật nuôi, gây nguy hại cho sinh trưởng, sinh sôi và thậm chí là sự sống còn của vật nuôi ở mức độ khác nhau. Nhẹ thì làm suy giảm chất lượng nước, sinh trưởng phát triển chậm; nặng thì xuất hiện nổi đầu, chết nổi và cuối cùng dẫn đền chết hàng loạt.
Oxy trong nước thấp dưới một mức độ nào đó, chuyển hóa sinh lí và sinh trưởng phát triển của vật nuôi bắt đầu chịu những ảnh hưởng bất lợi; nhưng sẽ không dẫn đến tử vong;nồng độ oxy hòa tan thời điểm này được gọi là oxy hòa tan nguy kịch (Critical Dissolved Oxygen). Nếu oxy tiếp tục giảm, đến mức thấp nhất không thể đáp ứng được nhu cầu sinh lí, vật nuôi sẽ ngạt thở mà chết, nồng độ oxy hòa tan thời điểm đó được gọi là oxy hòa tan gây chết (Lethal Dissolved Oxygen). Oxy hòa tan nguy kịch và oxy hòa tan gây chết biến đổi khác nhau tùy thuộc vào chủng loài và quy cách động vật (xem bảng 1), và chịu ảnh hưởng của nhiệt độ nước, độ mặn và các yếu tố môi trường khác; ví dụ: nhiệt độ nước tăng cao thì oxy hòa tan gây chết của động vật sẽ giảm đi.
Bảng 1: Nồng độ oxy hòa tan nguy kịch và oxy hòa tan gây chết ở một số loài (mg/L)
Loại cá | Cá nước lạnh | Cá nước ấm | Tôm |
Nồng độ nguy kịch | 5.0-6.0 | 4.0-5.0 | 3.0-4.0 |
Nồng độ gây chết | 2.5-3.5 | 1.0-2.0 | 0.5-1.0 |
Khi oxy hòa tan trong nước thấp dưới nồng độ nguy kịch, vật nuôi bắt đầu có biểu hiện kém ăn, sinh trưởng chậm, hệ số thức ăn tăng, tần suất lột vỏ giảm, và thường xuyên hoạt động ở những vùng nước nông; đọng vật thường xuyên tụ đàn gần máy quạt khí
Quản lý oxy hòa tan là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý chất lượng nước ao nuôi, là một hệ thống kỹ thuật coi nhu cầu oxy của động vật là nền móng cơ sở, lấy quan sát và đo định làm căn cứ, lấy dự phòng là chủ, ứng dụng tổng hợp các biện pháp. Trong thực tiễn sản xuất, mức oxy hòa tan trong nước có thích hợp hay không cũng không thể coi hiện tượng tôm cá nổi đầu là tiêu chuẩn phán đoán, mà nên coi việc bảo đảm nhu cầu sinh lí bình thường như tôm cá ăn nhiều làm tiêu chuẩn.Tiêu chuẩn nước dùng trong ngư nghiệp quy định, trong 24h liên tục, oxy hòa tan trong nước nhất định sẽ có 16h >5mg/L, bất cứ khoảng thời gian nào cũng không được thấp dưới 3mg/L.
Có thể áp dụng phương pháp hóa học hoặc đo bằng máy móc, phương pháp đo định hóa học kinh điển là cách đo iot, độ chuẩn xác cao, cũng được sử dụng để kiểm nghiệm mức độ đáng tin cậy của các phương pháp khác. Phương pháp đo iot xác định oxy hòa tan trong nước cần phải phối chế bao nhiêu dung dịch thuốc thử, các bước tiến hành đo cũng khá rườm rà, tiêu tốn thời gian. Do đó, nó được dùng nhiều trong việc đo định ở phòng thực nghiệm, áp dụng trong điều kiện sản xuất nuôi trồng không mấy thuận tiện. Hộp test oxy hòa tan thường gặp trên thị trường là một phương pháp đo nhanh chóng ngay tại hiện trường với nền tảng là biện pháp hóa học, căn cứ vào sắc sai quan sát được bằng mắt để phán đoán đại thể mức oxy hòa tan trong nước, khá là thực dụng. Nhưng theo như tìm hiểu của tác giả bài viết, độ nhạy của những loại hộp test như thế thường thì đa số là rất thấp, làm giảm tính thực dụng của kết quả đo.
Phương pháp đo bằng dụng cụ thí nghiệm khoa học là một phương pháp đo nhanh với thao tác thuận tiện, kết quả đáng tin. Hiện trường nuôi có thể sử dụng máy đo oxy kiểu cầm tay, chỉ cần đặt đầu đo oxy vào nước cần đo và lắc nhẹ, kết quả sẽ nhanh chóng hiện thỉ theo dạng chữ số. Do máy đo oxy tương đối đắt và nhiều trường hợp do không bảo quản cẩn thận làm rút ngắn tuổi thọ sử dụng, vì thế mà làm giảm đi tỉ lệ sử dụng phương pháp này trong nước ta, vĩnh viễn không thể phổ cập được bằng các quốc gia phát triển với nghề nuôi trồng khác. Nhưng, cùng với việc nâng cao mức độ tập trung hóa nuôi trồng và tăng cường quản lý, có thể đoán trước được rằng trong tương lai không lâu, máy đo oxy kiểu cầm tay sẽ trở thành dụng cụ đo định chủ yếu ở hiện trường nuôi trồng.
Trong trường hợp bình thường, mỗi ngày chỉ cần đo 1 lần là được, nên đo vào thời điểm sáng sớm và lúc chập tối, từ đó sẽ biết được tằng mức oxy hòa tan cao nhất và thấp nhất trong một ngày của ao nuôi, hỗ trợ phán đoán nồng độ oxy hòa tan trong nước có nằm trong phạm vi thích hợp hay không, nhất là giúp cho việc dự phòng phát sinh vấn đề thiếu oxy nghiêm trọng như “chết nổi”,… Đối với những ao nuôi vừa mới áp dụng các phương pháp khử trùng diệt tảo và sử dụng thuốc cải tạo vi sinh hiếu khí, cùng với những ao thường xuyên xuất hiện các vấn đề về oxy hòa tan nên cố gắng tăng số lần đo.
Nên đo ở những vị trí tiêu biểu nhất mà kết quả đo được sẽ có thể phản ánh được tình trạng chung về oxy hòa tan trong môi trường sống của vật nuôi. Vì thế, không nên chỉ đo ở tầng nước mặt hoặc đo gần chỗ máy quạt khí. Trong bất kỳ trường hợp nào, việc đo oxy hòa tan trong ao nuôi rất có ích để hiểu rõ được tình trạng oxy hòa tan trong nước và từ đó đưa ra được các phương pháp giải quyết tương ứng.
Trong sản xuất nuôi trồng, quản lý oxy thực chất là thông qua việc áp dụng các biện pháp tăng oxy trực tiếp hoặc gián tiếp, vừa có thể bảo đảm cho vật nuôi sống trong môi trường oxy hòa tan đầy đủ, đạt hiệu ích kinh tế tốt nhất, lại không dẫn đến tăng oxy quá độ làm lãng phí giá thành. Trong toàn bộ khâu nuôi và quá trình nuôi, có thể bắt tay vào từ những khía cạnh sau:
Trong điều kiện cho phép, cứ hai đợt sản xuất nuôi trồng nên dọn bùn ao khô, sử dụng vôi để khử trùng đáy ao và cày đất phơi khô. Làm như vậy vừa diệt được sác sinh vật gây bệnh, giảm được rủi ro bệnh hại trong quá trình nuôi, lại vừa có thể oxy hóa được các chất hữu cơ trong bùn đáy, loại bỏ NH3, NO2,…, giảm thấp lượng tiêu hao oxy bùn đáy trong quá trình nuôi, gián tiếp tăng oxy cho ao nuôi; Đồng thời còn có thể tăng độ cứng và độ kiềm trong nước, tăng cường hệ đệm của nước, hỗ trợ duy trì tính ổn định chất lượng nước trong quá trình nuôi. Khi thả giống, cần căn cứ vào hình thức nuôi, điều kiện nước nước nuôi, khả năng cấp thoát nước, trang bị thiết bị, trình độ quản lý và sản lượng mong muốn cùng với quy cách giống để tính toán mật độ thả nuôi sao cho hợp lí. Mật độ quá cao sẽ gây ra tình trạng “tranh oxy” giữa các cá thể động vật, giảm thấp hiệu suất sản xuất, kéo theo đó thì hiệu quả kinh tế có khả năng cũng sẽ giảm, đồng thời tăng rủi ro và độ khó trong quản lý.
Trong trường hợp bình thường, phân động vật và thức ăn dư thừa là nguồn ô nhiễm hữu cơ chủ yếu trong ao nuôi thâm canh, quá trình phân giải hữu cơ sẽ tiêu hao một lượng lớn khí oxy. Cho ăn những loại nguyên liệu đơn nhất hoặc thức ăn chất lượng thấp có dinh dưỡng không cân bằng, do không ngon miệng hoặc tiêu hóa không hoàn toàn dẫn đến lượng phân thải và thức ăn dư thừa tăng lên; mà tỉ lệ tiêu hóa hấp thu của thức ăn hỗn hợp chất lượng tốt rất cao, lượng chất bài tiết như phân thải ít hơn, từ đó có tác dụng gián tiếp tăng oxy trong nước. Kỹ thuật cho ăn khoa học cũng rất quan trọng, cần phải căn cứ vào thời tiết, chất lượng nước, hoạt động bắt mồi và tình hình sinh trưởng của động vật để kiểm soát chặt chẽ và điều chỉnh hợp lí lượng cho ăn, nên cho ăn nhiều lần với lượng thức ăn hợp lí, tránh việc cho ăn quá nhiều sẽ tạo ra thức ăn dư thừa. Đối với ao nuôi cá, sử dụng máy cho ăn và cho ăn các loại thức ăn dạng viên nở cũng sẽ giảm bớt được lượng thức ưn dư thừa.
Quá trình quang hợp nhả oxy của thực vật phù du là nguồn tăng oxy hòa tan quan trọng trong nước ao nuôi, rất nhiều trường hợp, nó còn là nguồn gốc tăng oxy chủ yếu nhất, nhưng tảo phát triển quá mạnh sẽ tiêu hao mất nhiều khí oxy hòa tan về đêm, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho vật nuôi. Do đó, nên áp dụng các biện pháp điều chỉnh khống chế sinh học hoặc hóa học để duy trì mật độ tảo thích hợp trong nước, đạt hiệu quả tăng oxy lí tưởng nhất. Trong thực tiễn sản xuất, nếu như kiểm tra cụ thể mật độ tảo cũng không tiện, căn cứ vào độ trong và màu nước để quan sát trực tiếp và suy đoán tương đối hiệu quả. Yêu cầu đối với màu nước và độ trong ở từng điều kiện ao nuôi khác nhau, đối tượng nuôi trồng khác nhau và các giai đoạn nuôi cũng sẽ có sự chênh lệch khác biệt, nhưng nói chung, duy trì được màu nước xanh non hoặc nâu nhạt và độ trong từ 25-40cm là tốt nhất.
Trong những ao nuôi mật độ cao, việc tăng oxy nhân tạo là điều kiện tất yếu để nuôi tôm được thành công, nhưng thống thường cũng là một phần chi phí lớn trong nuôi trồng ngoài thức ăn ra. Trong xem xem vấn đề chi phí tiêu thụ điện năng, và những nhận thức không đủ về mối nguy hiểm oxy thấp tiềm ẩn, rất nhiều người nuôi trang bị và sử dụng máy quạt khí không hợp lí, nhiều lúc đã coi việc tăng oxy nhân tạo là một biện pháp “cứu mạng”. Phương pháp khoa học chính là trên cơ sở nắm được nhu cầu oxy hòa tan của vật nuôi và mức oxy hòa tan thực tế trong nước, vận dụng linh hoạt biện pháp tăng oxy nhân tạo, vừa bảo đảm được mức oxy hòa tan thích hợp trong nước, lại tránh được việc tăng oxy quá mức dẫn đến lãng phí giá thành.
Tăng oxy bằng máy móc là phương thức chủ yếu nhất trong phương pháp tăng oxy nhân tạo, trọng tâm là máy tăng oxy, chủ yếu bao gồm hai loại là dạng khuấy nước (ví dụ như máy tăng oxy dạng guồng nước, dạng bánh xe có cánh quạt,…) và loại sục khí (ví dụ như máy tăng oxy dạng xạ lưu, dạng đá bọt,…), mỗi loại có một ưu điểm riêng, nên dựa vào điều kiện nuôi cụ thể để chọn dùng hoặc phối hợp sử dụng sao cho hợp lí. Khởi động máy tăng oxy thúc đẩy dòng chảy và chất lượng nước đồng đều, tăng lượng oxy hòa tan trong nước, tán phát các khí độc trong nước. Thời gian bật máy dài hay ngắn cũng phải dựa vào nước ao, đặc biệt là lượng mức oxy hòa tan tầng đáy để xác định. Đối với những nơi điện lưới không thuận tiện hoặc trong trường hợp cấp bách, việc sử dụng các loại thuốc tăng oxy hóa học vô cùng quan trọng và cần thiết.
Trong nuôi trồng không thể tránh được việc cạnh tranh dinh dưỡng và môi trường nước giữa vật nuôi và các loài phi vật nuôi (như tôm, cá, ốc tạp,…), từ đó gây ra mất cân bằng dinh dưỡng, môi trường sống suy thoái,… trong đó bao gồm cả nguy hại giảm oxy hòa tan trong nước. Do vậy, cố gắng tiêu diệt loại bỏ hết tôm cá tạp trong ao và nguồn nước, và tiến hành loại trừ trong quá trình nuôi. Nếu có điều kiện, nen thường xuyên bổ sung nước mới, đồng thời tiến thải chất ô nhiễm. Cho nước mới sẽ cải thiện nhanh chóng và hiệu quả oxy hòa tan trong nước, nhưng điều cần quan tâm là trong nguồn nước cho vào ao phải không có chất ô nhiễm, oxy hòa an cao, nhiệt độ và độ mặn,…tương tự như nước ao hiện có, nếu không sẽ gây ra sự ô nhiễm mới và đe dọa vật nuôi.
Trong nuôi trồng thủy sản, một mặt là biến đổi thời tiết mang tính không xác định và không thể kiểm soát, bản thân môi trường nước cũng phát sinh những thay đổi liên tục theo thời gian, đồng thời, thời tiết lại có những ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường nước; một mặt khác là sự biến đổi kịch liệt của các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, độ pH, độ pH,… trong thời gian ngắn sẽ sản sinh những mối de dọa cho vật nuôi. Trong thực tiễn sản xuất, những kiểu biến đổi như vậy khó mà tránh được, do đó chỉ có thể tăng cường quản lý trong quá trình nuôi, điều tra sự việc cẩn thận, nhất là trong thời kì nhiệt độ cao, thời tiết oi nóng , mưa lớn và gió thổi mạnh cần phải làm tốt những biện pháp ứng phó kịp thời (tăng oxy bằng máy móc hoặc tăng oxy hóa học), dự phòng và xử lý những biến đổi về oxy hòa tan.
Nguồn: dopa.vn
[widget id=”text-5″]Lọc thô là bước ban đầu để loại bỏ các cặn bẩn lớn có trong…
Lọc sinh học hồ cá là một trong những bước lọc nước hồ cá cơ…
Lọc hóa học là bước quan trọng trong chu trình lọc nước hồ cá koi.…
Thay vì sử dụng các thiết bị lọc chuyên dụng thì khá nhiều người tiến…
Một hệ thống lọc hồ cá koi chuẩn cần phải có đầy đủ các bộ…
Xây dựng một hồ koi đẹp, chuyên nghiệp không phải là điều đơn giản, đặc…